Học hỏi Phúc Âm Chúa Nhật 34 thường niên Năm C

HỌC HỎI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN NĂM C

Lc 23,35-43

  1. Trên thập giá, Đức Giêsu bị thách thức bởi mấy hạng người? Những lời thách thức của họ có điểm nào chung? Những lời thách thức này gợi ta nhớ đến biến cố nào Đức Giêsu đã trải qua trước đây?
  2. “Hắn đã cứu người khác”. Trước đây Đức Giêsu đã từng cứu ai không? Đọc Lc 8,36; 8,48; 8,50; 18,42.
  3. Tự cứu mìnhnghĩa là gì? Tại sao người Do-thái lại thách Đức Giêsu tự cứu mình? Đối với người Do-thái, Đấng Mêsia phải là Đấng như thế nào?
  4. Tại sao Đức Giêsu đã không muốn tự cứu mình?
  5. Đọc Lc 23,40-41. Qua câu nói của người trộm lành, bạn thấy tâm hồn anh như thế nào?
  6. Đọc Lc 23,42. Có ai gọi tên Đức Giêsu như anh trộm lành không. Đọc Lc 4,34; 8,28; 17,13; 18,38.
  7. Đọc Lc 23,42. Anh tin người đang chịu đóng đinh cùng với anh là ai? Đọc Lc 22, 29-30.
  8. Anh xin gì với Đức Giêsu đang chịu đóng đinh? Đọc Lc 1,54.72; Cv 10,31; Tv 106,4.
  9. Đọc Lc 23,43. Thiên đàng là gì? Đức Giêsu trên thập giá có mất niềm hy vọng không? Đọc Lc 22,69; 24,46.51.

 

GỢI Ý SUY NIỆM:  Trong bài Tin Mừng này, anh trộm lành nói đến việc Đức Giêsu vào Nước của Ngài, qua đó anh tin Đức Giêsu là một vị Vua. Bài Tin Mừng này có cho ta thấy cách làm vua của Ngài không? Cách này có khác với cách làm vua kiểu người đời không?

 

PHẦN TRẢ LỜI

  1. Trên thập giá Đức Giêsu bị thách thức bởi ba hạng người: các thủ lãnh của Do-thái giáo (Lc 23,35), lính tráng của người Rôma (Lc 23,36-38), và một trong hai tên gian phi (Lc 23,39). Những lời thách thức này có một điểm chung, đó là cám dỗ Đức Giêsu “cứu lấy chính mình”. Những lời này còn gợi ta nhớ đến ba lời Xatan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Lời cám dỗ của quỷ bắt đầu bằng câu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” (Mt 4,3.6). Trong Lc 23,35-43 ta cũng gặp hai câu nói bắt đầu bằng chữ “nếu”: “Nếu hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Lc 23,35); “Nếu ông là vua dân Do-thái” (Lc 23,37).
  2. Các thủ lãnh là những người chủ mưu giết Đức Giêsu, nhưng họ cũng phải thừa nhận rằng Đức Giêsu “đã cứu những người khác”  trong thời gian mấy năm qua (Lc 23,35). Trong Tin Mừng Luca, động từ “cứu” được sử dụng nhiều lần. Ngài đã cứu một người bị quỷ ám (Lc 8,36), cứu người phụ nữ bị xuất huyết đã mười hai năm (Lc 8,48), cứu cô con gái đã chết của ông trưởng hội đường (Lc 8,50), và cứu anh mù ở Giêricô (Lc 18,42).
  3. Các thủ lãnh và lính tráng cám dỗ Đức Giêsu “tự cứu mình.” Tự cứu mình là dùng quyền năng Thiên Chúa ban cho mình để thoát khỏi cảnh bị đóng đinh và chết nhục nhã. Nếu Đức Giêsu thật là người của Thiên Chúa thì Ngài phải được Thiên Chúa cho quyền xuống khỏi thập giá và chiến thắng những kẻ đã treo Ngài lên. Nếu Ngài không xuống được, thì chắc chắn Ngài không phải là người của Thiên Chúa. Ngài lại càng không phải là Đấng Kitô hay Mêsia, vì đối với người Do-thái, Đấng Mêsia phải là đấng toàn thắng. Một người bị đóng đinh là một người thất bại hoàn toàn, bị Thiên Chúa bỏ rơi và không đáng tin.
  4. Đức Giêsu đã không muốn tự cứu mình dù Ngài phải nghe ba lần lời thách thức ấy (Lc 23,35.37.39). Trong Vườn Dầu, Ngài biết ý Cha muốn Ngài phải hiến mạng sống để chuộc tội nhân loại, và Ngài đã vâng phục. Bây giờ Ngài chấp nhận ở lại trên thập giá vì muốn theo ý Cha. Chính vì ý thức mình là Đức Kitô của Thiên Chúa (Lc 23,35.39), là Con của Thiên Chúa Cha (x. Lc 23,34.46), nên Ngài không xuống khỏi thập giá để chứng minh tư cách của mình. Vì Ngài là Con, nên Ngài đã ở lại thập giá. Ngài không tự cứu mình. Ngài để Cha cứu Ngài theo cách Cha muốn.
  5. Qua Lc 23, 40-41 ta thấy tâm hồn của anh trộm lành. Anh là một tên gian phi đang chịu án tử trên thập giá. Nhưng anh khiêm tốn nhìn nhận mình chịu hình phạt thế này là đích đáng (Lc 23,41). Anh mắng anh gian phi kia vì hắn không có lòng kính sợ Thiên Chúa khi bảo Đức Giêsu  hãy tự cứu mình (Lc 23,40).  Hơn nữa, anh dám khẳng định Đức Giêsu vô tội (Lc 23,41), dám có cái nhìn khác về Đức Giêsu, người tử tội cùng chịu đóng đinh với mình. Quả thật, trong giây phút gần kề cái chết, anh gian phi, người mà ta thường gọi là anh trộm lành, đã được ơn khiêm tốn nhìn nhận tội mình, ơn bình an chấp nhận hình phạt thập giá, ơn nhận ra và can đảm tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu. Anh trở nên người biết “sợ Thiên Chúa,” khác với anh kia.
  6. Anh trộm lành đã bắt đầu cuộc đối thoại với Đức Giêsu trên thập giá, cuộc đối thoại lạ lùng giữa hai người tử tội gần kề với cái chết. Anh gọi thẳng tên Giêsu (Lc 23,42). Trong Tin Mừng Luca, quỷ cũng gọi tên Giêsu (Lc 4,34; 8,28); mười người phong (Lc 17,13) và người mù ở Giêricô (Lc 18,38) cũng vậy. Quỷ gọi tên Đức Giêsu để mong làm chủ được Ngài. Con người gọi tên Đức Giêsu để cầu xin Ngài nâng đỡ và cứu chữa.
  7. Anh trộm lành nói với Đức Giêsu về “Nước của Ngài” (Lc 23,42). Như thế đối với anh, Đức Giêsu, người đang bị đóng đinh, gần kề cái chết, lại là vị Vua của một Nước. Nước này nằm ở thế giới bên kia. Anh tin Đức Giêsu sắp bước vào Nước đó trong tư cách là Vua. Lòng tin lạ lùng của anh có thể đến từ thái độ tha thứ và bình an của Đức Giêsu trước mọi sự. Quả thật, theo Lc 22,29-30, Đức Giêsu nói đến việc Ngài trao lại cho môn đệ Vương quốc mà Chúa Cha đã trao cho Ngài. Trong Vương quốc ấy, họ sẽ được đồng bàn với Ngài và ngồi xét xử dân Ítraen.
  8. Anh xin Đức Giêsu nhớ đến anh. Khi Thiên Chúa nhớ lại giao ước hay lời hứa, Ngài sẽ thực hiện (Lc 1,54.72). Khi Thiên Chúa nhớ một người, Ngài sẽ thi ân cho người đó (Cv 10,31; Tv 106,4).
  9. Thiên đàng là nơi một người được “ở với Đức Giêsu” (Lc 23,43). Xem thêm Ga 12,26; 14,3; 17,24. Qua lời hứa của Đức Giêsu với anh trộm lành, ta thấy Đức Giêsu trên thập giá không hề mất niềm hy vọng. Tương quan giữa từng người chúng ta với Ngài sẽ còn kéo dài mãi mãi.