(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế”. Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục. Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “ Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “Yêu thương để phục vụ”… nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch. Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.
Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).
Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức.
Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu. Ngài nói: “Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn”. Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người. Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo.Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất. Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa. Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ. Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam. Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân. Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.
Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable). Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó. Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5,5-6). Quả thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).
Khiêm nhường: linh đạo Thập giá.
Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá. Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).
Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế. Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá. Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất: Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ. Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt. Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì. Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên. Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá. Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37). Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội. Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ. Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.“ Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời. Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18,2-4). Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến. Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội. Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ. Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi. Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.
Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu. “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại”. Thánh Marcô xác nhận: “Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9,32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan. Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh. Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu. Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào. Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20). Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).
Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá. Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài. “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Đời tôi tiến bước như một con lừa.
Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình. Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả. Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa”. Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh. Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài. Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón. Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó. Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi. Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than. Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần. Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi. Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy. “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế. Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình. Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “ không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)
Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo. Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới”. Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình. Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục. Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình. Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân. Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014). Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.
Kết luận: Tôi tớ của các tôi tớ
Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu. Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa. Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắngsự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu”. Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “ servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ). Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.